Các thôn làng cổ thuộc xã Xuân Hưng

Các làng cổ của xã Xuân Hưng được thành lập từ khoảng cuối thế kỷ XV-XVI thời Lê đến thời Nguyễn. Đầu tiên là các trang ấp, ở vùng bãi bồi cửa biển sông Sò (sông Ngô Đồng – Ngự Hàn) là dòng chính của sông Hồng cổ, đổ ra cửa Hà Nạn (trước khi sông Hồng chuyển dòng sau sự kiện “Ba Lạt phá hội” năm 1787), các sông chi lưu khác như Cát Xuyên (Cát Xuyên), sông Trà (Trà Giang), sông Mã… cũng gắn bó chặt chẽ với lịch sử lập làng cổ ở Xuân Hưng.

Buổi ban đầu lập ấp, người dân chọn các cồn gò, bãi cao làm nơi quần cư, chọn dải ruộng tốt để canh tác trước nên ruộng đất các làng không phân biệt xa gần, đan xen vào nhau, tục gọi là “cài răng lược”.

Khi hệ thống đê điều, thủy lợi dần ổn định, dân số đông đúc, kinh tế phát triển thì các trang ấp được nâng thành thôn làng, làng lớn phát triển thành các xã, rồi lại tách thành các thôn làng nhỏ, lân, giáp, trại… Từng thời kỳ lịch sử, việc chia tách sáp nhập hành chính có lúc nâng thành xã, có lúc xuống thành thôn. Hiện nay, các làng cổ được cộng đồng dân cư quản lý theo thiết chế văn hóa cộng đồng.

Bản đồ các làng cổ xã Xuân Hưng năm 1905, tỉ lệ 1 : 25.000. Nguồn: Thư viện QG Pháp. ST. Phan Văn Chính

Xuân Hưng gồm có các làng cổ Trà Lũ Trung (Trà Trung), Trà Lũ Bắc (Trà Bắc), Trà Lũ Đông (Trà Đông), Trà Lũ Đoài (Trà Đoài), Phú Nhai, Trà Khê Thủy (Trà Thủy), Lạc Nghiệp, Quần Cống (Thiên Thiện), Nhân Thọ, Tự Lạc, An Cư (Bình Cư, Yên Cư), Nam Điền, Quần Lung.

Làng Trà Lũ cổ được hình thành từ khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470), từ các nhóm cư dân Thanh Hóa, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội, Nghệ Tĩnh… di cư đến. Trà Lũ ban đầu có 3 thôn Bắc, Trung, Đông. Làng Trà Lũ Trung có họ Trần, Hoàng, Phạm, Lưu (sau này họ Lưu chuyển về làng Trà Bắc); Trà Lũ Bắc có họ Bùi, Đỗ, Vũ, Nguyễn, Lê, Mai (sau này có họ Mai Đinh, họ Trần chi trừ Trà Trung đến); Trà Lũ Đông có họ Phan, Lê, Hoàng, Phạm, Đỗ, Bùi, Khổng, Đinh (sau này thêm hai họ Vũ và họ Trần).

Năm Thành Thái thứ nhất (1889) do việc tăng đinh, mà các Giáp giáo – Họ đạo (theo đạo Công giáo) của Trà Lũ hợp thành thôn Đoài – Trà Lũ Đoài. Hiện nay, là các giáo họ Công giáo trong làng Trà Lũ đang lệ vào xứ Phú Nhai.

Năm Duy Tân thứ 9 (1915), 4 thôn của xã Trà Lũ tách thành 4 xã: Trà Lũ Trung, Trà Lũ Bắc, Trà Lũ Đông, Trà Lũ Đoài thuộc tổng Trà Lũ.

Sơ đồ biến đổi đường bờ phía nam cửa sông Hồng. Nguồn Viện KH Thủy lợi, ST. Phan Văn Chính

Làng Nam Điền thuộc tổng Trà Lũ, có các họ Ngô, Đoàn, Trần, Phạm, Đỗ, Hoàng, Bùi, Doãn, Đinh… nguyên xưa là ruộng chung của Trà Lũ, ruộng này cấp cho binh lính của làng cày cấy. Đến năm Thành Thái thứ hai (1890), Nam Điền tách thành xã hiệu riêng gồm các thôn Thượng, Trung, Nam (sau 1952 đổi tên thành Quốc Khánh, Quang Trung, Nam Hải).

Làng Phú Nhai là một trại cũ thuộc tổng Thủy Nhai, có vị thế đặc biệt ở giữa làng Trã Lũ, địa hình thấp trũng hơn xung quanh. Khu vực Phú Nhai là một “vụng thuyền chài” được người họ Đinh từ Thủy Nhai xuống khai phá[3]. Đến thời Nguyễn thì lập thành xã riêng, dân cư theo đạo Công giáo toàn tòng, còn số dân không theo đạo thì chuyển cư sang xứ Sài Nội – Trà Lũ Trung, Trà Lũ Đông và di cư đi Đông Trà – Thái Bình.

Làng Trà Thủy (Trà Khê Thủy thôn) có các họ Nguyễn, Đỗ, Đặng, Phạm, Đinh lập ấp từ niên hiệu Hồng Đức 1470 thuộc tổng Trà Lũ. Năm Hồng Đức mười hai (1481) được công nhận xã hiệu (cùng làng Trà Khê Cựu, nay thuộc Xuân Giang)

Làng Quần Cống (Thiên Thiện) khoảng năm 1428 cụ tổ họ Phạm người làng Hạ Đoạn (Hải Dương) đến lập nghiệp ở vùng Mả Màn (đồng Thổ). Năm 1431, cụ Nguyễn Tuệ, cụ Ngô Thức và cụ Đỗ Phúc Lãng từ kinh đô đến lập nghiệp ở ấp Đồng Thiện, khi dân cư đã đông chính quyền công nhận xã hiệu Quần Cống. Đến năm 1831, trong thời kỳ sát đạo Gia-tô, tổng đốc Nam Định tâu với nhà vua đổi Quần Cống thành Thiên Thiện xã, thuộc tổng Trà Lũ.

Làng Lạc Nghiệp thuộc tổng Trà Lũ, từ trước năm 1428 đã có một số người từ Hải Dương đến lập ấp. Tiếp đến có cụ Tả đô đốc Trần Quý Uân, quan Bộ Lại là Nguyễn Hữu Dụ và quan Vệ úy là Phạm Tây đến xem xét việc khẩn hoang. Sau đó cụ Ngô Liễn đứng đầu, đưa 94 dân đinh đến khai phá. Đến năm Hồng Đức thứ hai (1471) chính thức “chiếm xạ” thành lập Lạc Nghiệp trang. Năm Thiện Đức (1600) thì chuyển định cự về khu vực hiện nay. Làng Lạc Nghiệp có các họ Ngô, Trần, Phạm, Nguyễn, Đinh, Lê, Bùi, Lại, Vũ, muộn hơn có họ Hứa, họ Đặng xuống khai khẩn. Sau này, cư dân Lạc Nghiệp còn khai lập lên thôn Quần Lung và Đoài Nam (thuộc Xuân Hòa) và thôn Chí Thiện (thuộc Giao Thủy).

Làng Tự Lạc vào đầu triều Nguyễn, các cụ Ngô Văn Phú, Ngô Văn Tề, Trần Văn Hoàng từ thôn Lạc Nghiệp ra khai khẩn lập thành giáp Tự Lạc, về sau mộ thêm dân đinh ở nơi khác trong vùng đến thành lập ấp Tự Lạc. Năm 1829, quan Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ cho phép trưng 100 mẫu thành lập xã Tự Lạc, thuộc tổng Hoành Thu, huyện Giao Thủy. Năm 1936, làng Tự Lạc cắt chuyển về phủ Xuân Trường.

Làng Nhân Thọ được hai khẩn từ thời Hồng Đức, trước là cánh đồng xứ Hạ Đa, thuộc xã Hoành Vực (tức làng Thọ Vực) nhưng chỉ là một trại chưa có người ở. Đến thời Cảnh Hưng (1740-1789) cụ Lê Công Tâm cùng con trai là Lê Phúc Hạnh từ Thọ Vực xuống định cư. Sau đó, một số dân cư xuống tiếp, lập thành lân Thái Bình. Năm Thành Thái thứ tư (1892), thành lập thôn Nhân Thọ thuộc xã Hoành Vực, thuộc tổng Trà Lũ.

Làng An Cư từ niên hiệu Hồng Đức các cụ tổ họ Vũ, Đặng, Đỗ, Trần… đến khai hoang lập ấp. Ban đầu làng có hai ấp. Một ở khu Đồng Lãnh Thượng gần sông Ninh Cơ gọi là Tân Ấp (nay là Hạ Linh, Xuân Trường). Sau khi mở mang xuống phía nam có ấp mới tên là Bình Cư (vị trí hiện nay). Người An Cư có câu “Thượng chí Hoành Quán, hạ chí Cồn Tàu (Tồn Thành)” để chỉ ruộng đất và nơi người An Cư từng khai phá. Thế kỷ XVI, khi thiên tai làm vỡ đê, dân cư phiêu tán, cụ tổ Vũ Phúc Diễn chiêu dân tái lập Bình Cư. Năm Vĩnh Tộ thứ mười (1628) triều đình đo đạc lại phục hồi lại ruộng đất, rồi đổi tên làng thành An Cư./.

Nguồn: Phan Văn Chính